Văn mẫu 11 – Học vẹt https://hocvet.com giáo dục cho mọi lứa tuổi Mon, 08 Nov 2021 03:52:56 +0000 vi-VN hourly 1 163425933 Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao https://hocvet.com/phan-tich-tan-bi-kich-cua-nhan-vat-ho-trong-truyen-doi-thua-cua-nam-cao/ https://hocvet.com/phan-tich-tan-bi-kich-cua-nhan-vat-ho-trong-truyen-doi-thua-cua-nam-cao/#respond Mon, 08 Nov 2021 03:52:28 +0000 https://hocvet.com/?p=1178 Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao (ngữ văn lớp 11) – Tôi nhớ có một nhà văn Nga đã phát biểu: Những gia đình hạnh phúc đều giống nhau, còn những gia đình bất hạnh thì đau khổ theo kiểu riêng của mình trong nỗi đau chung của cuộc đời. Rõ nhất là dưới bóng đêm của xã hội cũ, mỗi con người đều gắn liền với mỗi số phận, mỗi nỗi đau riêng. Mỗi tác phẩm văn chương lại xuất phát từ cuộc đời. Hầu như trong cuộc đời cũ,

Bài viết Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao (ngữ văn lớp 11) – Tôi nhớ có một nhà văn Nga đã phát biểu: Những gia đình hạnh phúc đều giống nhau, còn những gia đình bất hạnh thì đau khổ theo kiểu riêng của mình trong nỗi đau chung của cuộc đời. Rõ nhất là dưới bóng đêm của xã hội cũ, mỗi con người đều gắn liền với mỗi số phận, mỗi nỗi đau riêng. Mỗi tác phẩm văn chương lại xuất phát từ cuộc đời. Hầu như trong cuộc đời cũ, những áng văn chương sống lâu với thời gian phần nhiều lại là những tác phẩm viết về nỗi đau của con người.

Phải chăng bản thân những băn khoăn về nổi đau ấy tự nó bộc lộ một khát vọng cao đẹp. Có lẽ nhà văn muốn đồng hành với đồng bào, đồng loại của mình trên hành trình đi đến một chân trời hạnh phúc và vẹn toàn. Nam Cao là một trong những nhà văn như thế qua nhiều tác phẩm, nổi bật là “Đời thừa” với tấn bi kịch của nhàn vật Hộ.

Đọc “Đời thừa”, tiếp xúc với văn sĩ Hộ, người đọc cứ bị ám ảnh mãi về những bi kịch tinh thần mà người trí thức dưới xã hội thực dân nửa phong kiến phải gánh chịu. Có lẽ khi viết “Đời thừa”, Nam Cao đã sống với nỗi đau của người trí thức – một chứng nhân trong cuộc – bởi vậy ống rất tin vào những điều tốt đẹp trong nhân cách của người trí thức. Và đồng thời ông cũng bộc lộ khát khao về hạnh phúc của những nhân vật đáng thương ấy. Người trí thức tiểu tư sản là một hình ảnh nổi bật trong những sáng tác của Nam Cao. Viết về người trí thức, ông không chỉ viết bằng vốn liếng, quan sát của mình mà còn viết với sự thông cảm sâu sắc. Bản thân cuộc đời ông lắm gian nan nhưng ông chỉ quan tâm đến sự thiếu thốn về vật chất, mà điều ông đặc biệt để ý đến là những trăn trở day dứt, thể hiện những khát vọng cao cả, những sự nghiệt ngã trong cuộc đời thực đã dìm xuống. Đó là những con người “lực bất tòng tâm” để rồi dẫn họ đến một bi kịch tinh thần. Nhân vật Hộ đã mang đủ những tính cách như thế.

Anh là người chồng của một người vợ ốm yếu, là cha của những đứa con hay đau bệnh. Gánh nặng gia đình và trách nhiệm của một người chồng, người cha luôn đè nặng trên đôi vai của anh. Ở một phương diện khác, anh lại là một nhà vãn. Đây là công việc mà anh tự cho là hết sức cao quý. Ở Hộ luôn có sự giằng co không dung hòa nổi, không giải quyết được mâu thuẫn giữa tư cách một nhà vãn và trách nhiệm của một người chủ gia đình.

Với tư cách là trụ cột gia đình, Hộ đã có ước muốn nào cho tổ ấm nho nhỏ của mình? Trong thực tế, anh đã làm được gì cho gia đình ấy? Hộ chỉ là một nhà văn nghèo sống bằng tình thương. Ước mơ của Hộ là mang lại hạnh phúc cho vợ con mình – những người mà anh thương. Hộ luôn biết vươn lên với một nguyên tắc sống “kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên dôi vai người khác đế thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp dỡ kẻ khác trên đôi vai mình ”. Thời gian đầu, Hộ đã trung thành với nguyên tắc ấy. Hộ cúi xuống để cứu giúp cuộc đời đau khổ của Từ với một tình thương, một tâm hồn hoàn toàn vô tư, độ lượng.

Anh đã từng có một suy nghĩ hết sức cao đẹp: nếu cần anh cũng sẵn sàng hi sinh niềm say mê nghề nghiệp của mình cho hạnh phúc gia đình. Ở thời gian đầu, Hộ đã làm được việc đó. Nhưng cái gánh nặng gia đình ngày càng nặng, con đường phía trước còn quá dài. Đôi vai anh trĩu xuống, đôi chân ạnh dừng ỉại. Vả lại Từ chẳng thể đỡ đần gì về mặt kiếm sống cho chồng vì không vốn và bận bịu đàn con thơ. Từ đã không san sẻ được cái gánh nặng cuộc đời với chồng mặc dầu trong thâm tâm Từ rất muốn làm như thế. Cứ loay hoay mãi trong vòng ràng buộc “áo cơm”, Hộ lại rơi vào sự bế tắc bất lực. Còn đâu những hoài bão lớn mà Hộ đã từng vun đắp? Bấy giờ đói rét đã có nghĩa lí đối với nhà văn say mê lí tưởng ấy rồi. Anh không còn dám khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Anh đã biết giá trị của đồng tiền và cái nhục của một thằng đàn ông không nuôi nổi vợ con.

Hộ giận cuộc đời thật khắt khe đối với mình, giận vợ con và giận cả bản thân mình. Hộ tìm quên lãng trong hơi rượu, và những lời lẽ bốc đồng cay nghiệt, cộc cằn như một tên vô lại trút cả lên đầu vợ con: “ngày mai, chỉ ngày mai thôi là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này… Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ có biết ăn với hét? Cả con mẹ nữa… cũng đáng vật một nhát cho chết nốt …”. Hộ đã rơi vào sự tha hóa từ những lời lẽ thô lỗ như thế. Nhưng Nam Cao đã biết dừng lại đúng lúc. Ông không để cho nhân vật của mình trượt dài trên con đường tha hóa, để rồi một lúc nào nhìn lại, Hộ lại hối hận vì những lầm lỗi không thể tha thứ được.

Ở đây, nhà văn để cho người trí thức như Hộ suy nghĩ; trăn trở để tự suy xét mình. Họ là những người ưa hướng nội, luôn sống với nội tâm của mình. Phải chăng nhờ đặc điểm này mà họ có những khoảnh khắc thức tỉnh, để không trở thành những tội nhân đáng thương, những kẻ đáng lên án của xã hội. Hộ cũng là một con người như thế. Sau những cơn say, Hộ lại ân hận và tự giày vò, nguyền rủa mình. Hộ không ngờ rằng có lúc con người mình lại đồi bại như thế. Nhờ tự vấn lương tâm mà Hộ đã có phút thức tỉnh, ăn năn, ân hận. Cho dù Hộ là con người cao quý thế nào đi chăng nữa, Hộ cũng đã gây ra đau khổ cho người thân, đó là lỗi lầm đáng trách. Nhưng còn một điểu may mắn, Hộ vẫn là một con người. Cũng bởi vì còn là một con người nên Hộ đã khổ, đã phải rơi vào bi kịch: Nỗi khổ tâm do mâu thuẫn không giải quyết được giữa cái khổ vật chất và tâm hồn. Hộ luôn bị giằng xé giữa hai đối cực của tình cảm và của hành động, đó là sự chọn lựa giữa sự cao cả và cái thấp hèn; giữa lòng vị tha và tính vị kỉ … Đây là tấn bi kịch ghê gớm, quằn quại. Nỗi dằn vặt ấy Nam Cao đã thấy được, đã hiểu được, hiểu sâu vào nội tâm nhân vật của mình. Đây chính là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của nhà vãn Nam Cao…

Nhưng nếu chỉ có thế thì cuộc đời của văn sĩ Hộ chưa đáng “thừa”. Trong ý thức, Hộ chưa bao giờ rẻ rúng nghề văn của mình. Ngược lại, anh rất sung sướng và tự hào về nghề văn “thử có người giàu bạc vạn nào thuận dổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi dã đổi”. Hộ đã nói một cách chân thật suy nghĩ của mình như thế.

Đọc một đoạn văn hay, Hộ ngây ngất đầy khoái cảm nhưng đó cũng chính là lúc Hộ nhận ra rằng, chi tại “tôi mê văn quá nên mới khổ”. Hộ luôn ấp ủ một ước mơ: Tác phẩm của mình sẽ đoạt giải Nô-ben, sẽ làm lu mờ những tác phẩm khác. Chứng ta không nên có thái độ cực đoan đối với nhân vật Hộ. Hộ không phải là kẻ háo danh. Anh chỉ muốn tác phẩm mình thực sự có giá trị, phải vượt lên trên tất cả để trường tồn với không gian và thời gian. Một tác phẩm hay phải bao quát cả bề rộng và chiếu sâu, chứa đựng tình người lớn lao, mạnh mẽ. Hộ đã nói điếu này trong lúc uống rượu, nhưng đừng nghĩ rằng đây là những lời lẽ bốc hơi men, mà đày là những lời lẽ chân tình, chân thực đã được ấp ủ lâu trong lòng Hộ, mang khát vọng cháy bỏng trong tàm can Hộ. Đây là những điều mà ngày thường anh không nói ra.

Theo thời gian, Hộ phải quay về với cuộc sống thực tại. Những giây phút hạnh phúc ấy quả là ngắn ngủi, ít ỏi trong cuộc đời Hộ. Chính Từ đã kéo Hộ trở về với thực tại, một sự thực nghiệt ngã với những cái tẹp nhẹp, tủn mủn: mắm, gạo, thuốc, tiền nhà… Hộ như vỡ mộng, đâm ra cáu gắt nhưng vẫn không trốn được những cái tẹp nhẹp ấy. Thế là nhà văn Hộ phải viết ẩu, viết vội mặc dù anh tự biết rằng “sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Hộ không cho phép mình là kẻ đè tiện nhưng thực tế thì Hộ đã phải viết “toàn những cái vô vị nhạt nhẽo… quấy loăng trong một thứ văn bằng phẳng và quá dể dãi”. Khi đọc lại những trang viết như thế, Hộ cảm thấy xấu hổ: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng dĩa rồi”. Hộ đã không tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi mà chỉ còn là một người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu có sẵn. Điều này có nghĩa Hộ đã là một con người thừa, “thừa” với ngay cả cái nghề mà anh ta tự hào: “cái mộng vân chương ngày nào bây giờ cũng chỉ là mộng”. Hộ cố nhớ lại những gì rất xa xôi, là hoài bão tốt đẹp trong đầu một chàng trai trẻ hăm hở bước vào đời và bước vào nghề. Cuộc đời sáng tác có lẽ đã chấm hết bởi những tác phẩm Hộ viết và tiếp tục viết sẽ chẳng còn cần thiết cho đời nữa. Là một người thừa trong nghiệp văn, nhưng Hộ lại vẫn còn là con người đầy lòng tự trọng, vẫn còn có cái khát vọng cao cả, vì vậy mà anh ta đã khổ, đã rơi vào bi kịch.

Chính những bất công phi lí của xã hội thực dân nửa phong kiến đã không “nuôi ” nổi những ước mơ cao đẹp của con người. Từ đó tạo nên bi kịch. Đấv cũng chính là chiều sâu của cuộc đời thường, một nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của nhà vãn Nam Cao.

Người trí thức trong tác phẩm của Nam Cao dường như luôn ở tư thế giằng co giữa hai đối cực của tình cảm, của quá trình tâm lí, của nhân cách. Có lúc họ hi vọng nhưng rồi lại tuyệt vọng, chán chường. Nhiêu lúc lằn ranh phân chia những đối cực ấy mỏng manh như những sợi tóc, chênh vênh, chao đảo. Nhưng Nam Cao đã không để cho nhân vật của mình rơi xuống hố sâu của cái ác và cái xấu. Họ vẫn là người, mang trong mình tính cách của một người trí thức có tâm huyết.

Đọc xong tác phẩm, có một điều đáng quý là tấm lòng của Nam Cao, vừa cảm thông trước bi kịch khổ đau của Hộ, vừa bao dung trước những lỗi lẩm, vừa trân trọng những hoài bão tốt đẹp. phát huy những khát vọng cao cả mà nhãn vật muốn vươn tới. Điều này thật dáng quý và đó là tấm lòng nhàn đạo của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao khi dựng lên bi kịch cùa người cầm bút trước đây.

Bài viết Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/phan-tich-tan-bi-kich-cua-nhan-vat-ho-trong-truyen-doi-thua-cua-nam-cao/feed 0 1178
Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh Phúc Của Một Tang Gia https://hocvet.com/652-2/ https://hocvet.com/652-2/#respond Mon, 08 Nov 2021 03:11:57 +0000 https://hocvet.com/?p=1112 Phân tích Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia trong tiểu thuyết Số Đỏ – Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) được mệnh danh là ông vua phóng sự Bắc Kì và là nhà tiểu thuyết lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Số Đỏ (1936) là cuốn tiểu thuyết trào phúng có một không hai “có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải), ở tác phẩm này, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên bức tranh toàn cảnh về xã hội thực dân

Bài viết Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh Phúc Của Một Tang Gia đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia trong tiểu thuyết Số Đỏ – Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) được mệnh danh là ông vua phóng sự Bắc Kì và là nhà tiểu thuyết lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Số Đỏ (1936) là cuốn tiểu thuyết trào phúng có một không hai “có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải), ở tác phẩm này, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên bức tranh toàn cảnh về xã hội thực dân tư sản với rất nhiều loại người, hạng người mà nét tính cách chủ yếu là dốt nát, bịp bợm, đạo đức giả, dâm đãng và hãnh tiến. Trong đó có nhiều tính cách điển hình phản diện sắc sảo như Xuân Tóc Đỏ, cụ cố Hồng, bà phó Đoan… Để làm nổi bật nội dung đả kích, tác giả đã sử dụng bút pháp trào phúng điêu luyện: bằng cách tạo tình huống, thủ pháp cường điệu phóng đại, xây dựng mâu thuẫn – thủ pháp tương phản, cách xây dựng nhân vật… Nên mỗi chương của tác phẩm trở thành một màn hài kịch đặc sắc. Hạnh phúc của một tang gia là một màn hài kịch thể hiện bút pháp trào phúng tài tình của nhà văn.

Vũ Trọng Phụng đã sử dụng biện pháp tương phản trào phúng xuyên suốt cả chương và thể hiện ngay trong nhan đề: Hạnh phúc của một tang gia. “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”, hai cụm từ đối chọi gay gắt nhưng đi liền thật tự nhiên đầy mai mỉa. Điều ngược đời, sự tương phản vô lí này lại có lí vì đó là sự thật ở gia đình cụ cố Hồng. Lây cái chết của cha, ông làm sung sướng, thật là bọn người bất nhân, bất nghĩa, đại bất hiếu. Tiếng cười châm biếm đả kích bắt đầu toát ra từ đó.

Đi vào cảnh đầu chương truyện – cảnh gia đình cụ cố Hồng lo tang, tương phản trào phúng được thể hiện rất rõ. Thường tình, gia đình ai có tang đều nhuốm màu tang tóc, sầu thương, mất mát, bi lụy; nhưng ở gia đình tư sản giàu có này thì ngược lại hoàn toàn “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Mọi người “tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”. Cụ cô” Hồng nhắm mắt mơ màng đến lúc cụ mặc áo xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho phố phường được chiêm ngưỡng một cái gậy như thế, một đám ma như thế. Cái được sung sướng của ông ta thật quái gỡ. Ông Văn Minh vui mừng vì cái chúc thư đã đến lúc thực thi. Bà Văn Minh có dịp lăng-xê mốt áo tang của tiệm may Âu hóa. Còn ông Phán mọc sừng thì vô cùng mừng rỡ vì được chia thêm gia tài. Mọi người đều được hưởng lợi từ cái chết. Chẳng có được một người thực tầm thương tiếc người khuất núi.

Nhờ thủ pháp tương phản này, đoạn trích đã làm nổi bật đám con cháu trong gia đình tư sản đại bất hiếu, vô đạo.

Tuy vậy trong cảnh tang gia cũng có vài khuôn mặt buồn. Đó là vẻ mặt “đăm đăm chiêu chiêu”, có vẻ lo lắng của ông Văn Minh nhưng ông ta lo chuyện khác, không phải lo tang cho ông nội. Cô Tuyết có nét mặt phảng phất buồn rất lãng mạn, nhưng cô ta buồn vì người yêu không đến viếng chứ không phải buồn vì cái chết của ông. Những chi tiết này càng làm tăng thêm vẻ hài hước, mỉa mai của vở kịch. Nếu họ vui thì chỉ mang tội bất hiếu, còn buồn thì mang thêm tội giả dôi.

Tương phản trào phúng còn bộc lộ trong cảnh đưa tang. Thông thường cảnh đưa tang đều có không khí trang nghiêm, thành kính, u buồn nhưng đám ma cụ cố tổ thật ầm ĩ, huyên náo, tưng bừng phố xá với đủ thứ bát nháo, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, câu đối, vòng hoa… đủ loại kèn Ta, kèn Tàu, kèn Tây thay nhau rộn lên. Quần áo tang đủ thứ mốt hở hang. Đúng là cảnh một đám rước vui vẻ, “danh giá” và gia đình cụ cố Hồng thật hãnh diện, mọi người đều vui sướng. Người sung sướng nhất là cụ bà, khi nhìn thấy đoàn xe do Xuân chỉ huy nhập vào giữa đường, làm cho đoàn xe tang thêm dài ra, thêm vui vẻ. Xuân xuất hiện thật đúng lúc và hắn là kẻ nổi bật nhất vì đã góp phần đẩy niềm vui của. người đang vui lên tột đỉnh. Niềm vui còn lây sang cả người chết, “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”. Đây là chi tiết đắc nhất của màn hài kịch thể hiện trí tưởng tượng phong phú và tài mỉa mai châm biếm của nhà văn. Niềm sung sướng lớn lao của người sông có khả năng đánh thức cả người chết. Nếu cụ cô” tổ vô tình sông lại để được nhìn đám con cháu lấy cái chết của mình để diễn trò vui như thế thì có thể đau đớn mà chết ngất thêm lần nữa. Tác giả cho rằng người chết phải mỉm cười là cách nói ngược đầy mai mỉa, chua chát, là cái tát vào mặt bọn người vô lương. Họ cả gan xúc phạm đến anh linh của người đã khuất.

Cảnh đưa tang thật lố lăng, nhốn nháo nhưng phố phường ai cũng khen đám ma to, như được thể nên “đám cứ đi”… cái điệp khúc này như một trò trêu ngươi. Dư luận phố phường khen ngợi, đồng tình đám ma, thì không chỉ có gia đình cố Hồng vô đạo mà còn có cả cái xã hội tư sản kia cũng thế.

Nhờ thủ pháp tương phản trào phúng mà màn hài kịch đã phơi bày cái xã hội tư sản thích phô trương danh giá bằng trò chơi lố lăng, vô văn hóa, giả dối, vô đạo, vô hiếu, và đem đến cho người đọc tiếng cười khinh bỉ.

Để đem lại tiếng cười châm biếm, trong chương truyện này tác giả còn dựng được những bức chân dung hí họa vđi thủ pháp tương phản, phóng đại và bằng nét vẽ sống động, đặc sắc.

Đám quan khách danh giá của cụ cố Hồng đến viếng tang mà ngực đeo đầy những thứ huân chương, mép và cằm đủ thứ râu ria. Với nét vẻ biếm họa, nhà văn đã làm nổi rõ những chân dung lố bịch, hài hước. Các vị xúc động không phải vì tiếng kèn xuân nữ ai oán não nùng mà là vì làn da trắng của Tuyết. Sự tương phản giữa vẻ mặt với nội tâm đã đem lại tiếng cười châm biếm bản chất dâm đãng của hạng người này.

Đám người đi đưa tang cũng được khắc họa theo thủ pháp tương phản, bên ngoài họ luôn giữ khuôn mặt buồn rầu nhưng kì thực bên trong họ toàn thầm thì chuyện vui vẻ, rồi họ chim nhau, cười tình với nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… Cảnh đưa tang hóa ra là cảnh đưa tình, bị biến thành chợ tình của lũ người rỗng tuếch và dâm ô. Đến lúc hạ huyệt chân dung đám người này được cậu tú Tân chăm sóc bẻ theo từng kiểu mẫu, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, cong lưng, lau mắt… để chụp hình cho nó giống… cảnh tang. Nhờ chi tiết phục bút này mà hóa ra từ nãy giờ người đọc không phải chứng kiến cảnh đưa tang. Đầy cũng là một pha hài, tính chất đóng kịch, giả dối bộc lộ rõ nhất của đám tang.

Hình ảnh cuối cùng sinh động nhất về bức chân dung hí họa là ông Phán mọc sừng với cái oặt người để rặn ra tiếng khóc “HứtL. Hứt!… Hứt!…” tiếng khóc giả dối ấy được vắt ra từ sự tính toán, mưu mô lọc lừa mà không hề có chút cảm xúc nhưng đánh lừa được tất cả mọi người kể cả tên vua lừa là Xuân Tóc Đỏ. Ông ta đúng là một diễn viên kịch xuất sắc. Chi tiết này là đỉnh cao của sự trào phúng trong màn hài kịch và sự giả dối, bịp bợm đã đạt tới một nghệ thuật tinh vi, quỷ quyệt. Sự giả dối đã trở thành một thứ nghề nghiệp để kiếm sống. Cả đám tang không có lấy một tiếng khóc, đến giờ phút vĩnh biệt thiêng liêng nhất thì có một tiếng khóc như ôi thôi, nó mỉa mai chua chát làm sao!

Bằng thủ pháp tương phản là chính, nhà văn đã dựng được những bức chân dung hài hước làm bật ra những tiếng cười đả kích. Đả kích bọn tư sản giàu có mà lố lăng, suy đồi, giả dối, bịp bợm.

Chương truyện là một màn hài kịch sống động, một bức tranh hí họa khổ lớn. Bằng bút pháp trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cảnh một gia đình tư sản tiêu biểu cho cả xã hội tư sản ở thành thị vô đạo, vô hiếu, lố lăng, bịp bợm, rỗng tuếch, chỉ sống hình thức, thích phô trương hình thức và chạy đua theo hình thức. Do đó tác giả đã đem đến tiếng cười vừa mỉa mai khinh bỉ, vừa ngán ngẩm. Nhờ tài nghệ trào phúng bậc thầy mà tác phẩm Số đỏ có tính chiến đấu sắc bén hơn.

Bài viết Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh Phúc Của Một Tang Gia đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/652-2/feed 0 1112
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao https://hocvet.com/phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-tac-pham-cung-ten-cua-nam-cao/ https://hocvet.com/phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-tac-pham-cung-ten-cua-nam-cao/#respond Sun, 07 Nov 2021 15:37:53 +0000 https://hocvet.com/?p=1048 Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nối bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Cùng với các tác phẩm hiện thực viết về người nông dân bị áp bức bóc lột như Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố thì Chí Phèo của Nam Cao cũng là một truyện ngắn rất đặc sắc. Viết tác phẩm này, nhà văn đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi và đang tạo những gì chưa có ” ở một đề tài

Bài viết Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nối bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo – Cùng với các tác phẩm hiện thực viết về người nông dân bị áp bức bóc lột như Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố thì Chí Phèo của Nam Cao cũng là một truyện ngắn rất đặc sắc. Viết tác phẩm này, nhà văn đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi và đang tạo những gì chưa có ” ở một đề tài quen thuộc. Ông đã phát hiện ra những nỗi đau khổ không gì so sánh được của người nông dân trong xã hội cũ là: vì bị áp bức, bóc lột vì nghèo đói và bế tắc, cùng đường, người nông dân có thể bị hủy hoại từ phần hồn đến phần xác, từ nhân tính đến nhân hình.

Phân tích tính cách của Chí Phèo, nhân vật chính của tác phẩm cùng tên, không những chúng ta thấy rõ những điều vừa nói mà còn bắt gặp một cái nhìn mới mẻ, độc đáo có chiều sâu đầy tính nhân đạo của nhà văn về người nông dân trước cách mạng.

Nói đến Chí Phèo là nói đến một thằng “cùng hơn cả dân cùng” điển hình cho những nỗi khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Chí vốn là một đứa con hoang may nhờ chút tình thương của xã hội mới có thể tồn tại mà trưởng thành. Mới đẻ ra, Chí đã bị vứt đi bên một cái lò gạch cũ bỏ không và sau đó đã trở thành một món hàng mua bán. Từ thuở nhỏ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ ” đến năm hai mươi tuổi, Chí là một anh thanh niên khỏe mạnh làm canh điền cho Bá Kiến. Chí khi ấy cũng “ao ước có như gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải, chung lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm ” nghĩa là chỉ mơ ước một cuộc sống hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị bằng chính sức lao động của mình. Lúc này, tuy còn trẻ trung nhưng hắn cũng có lòng tự trọng. Khi bị bà Ba “quỷ quái ” nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, hắn “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Đúng là hắn biết phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa. Nhưng rồi bản chất lương thiện trong sáng này của hắn đã bị xã hội đương thời ra sức huỷ diệt.

Bỗng nhiên, chỉ vì ghen tuông vu vơ. Bá Kiến cho giải Chí lên huyện đi ở tù. Sau bảy tám năm biệt tích, một hôm Chí trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí hoàn toàn thay đổi. Từ tính cách, cử chỉ, hành động đến ngoại hình của hắn “trông đặc như một thằng sàng đá”. “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương thiện của Chí và biến hắn trở thành một thằng lưu manh đầy tội lỗi. Hãy trông lại ngoại hình của hắn “Hắn mặc quần nái đen, áo tây vàng, ngực áo phanh ra để lộ những hình chạm trổ rồng phượng”. Đúng là chân dung một kẻ côn đồ “anh chị” bất chấp mọi thứ, sẩn sàng gây gổ, đâm chém. Từ đó, Chí đi từ những hành động lưu manh vô ý thức chỉ nhằm đáp ứng những cơn thèm rượu và thói ngố ngáo ngang ngược đến chỗ trở thành “đầy tớ tay chân” của Bá Kiến. Chí rất dễ bị bọn thông trị xảo quyệt mua chuộc và lợi dụng. Thật vậy, chỉ cần mây câu nói ngọt xớt, một chuỗi cười Tào Tháo và năm hào chỉ một bữa ăn… Bá Kiến đã thu phục được kẻ thù thành công cụ mù quáng trong tay mình. Công việc của Chí là dập đầu, rạch mặt, đe dọa, ăn vạ, tông tiền. Bọn cường hào lợi dụng hắn để thanh trừng lẫn nhau. Có lần được Bá Kiến sai đi đòi nợ Đội Tảo, xong việc, hắn vênh váo: “Anh hùng làng này có thằng nào bằng ta. Cả cuộc đời hắn từ đó chìm đắm trong một cơn say và hắn đâu biết rằng trong cơn say (hắn) đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Bởi vậy, trong con mắt của mọi người làng Vũ Đại, Chí Phèo đúng là “một con quỷ dữ”. “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua”. Khi Chí Phèo ngất ngưởng trên đường say, hắn chửi bới, la làng, mọi người đều “mặc thây cha nó ” “không ai cần động dạng”. Và Chí Phèo vẫn chỉ có một mình “chửi rồi lại nghe”, không ai thèm lên tiếng. “Đáp lại hắn, chỉ có lũ chó cắn xao lên trong xóm”. Như vậy, đúng là Chí đã mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính, bị khai trừ ra khỏi xã hội loài người.

Vạch ra một cách lô gích quá trình lưu manh hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã mạnh mẽ tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã xô đẩy người nông dân vào bế tắc, không lối thoát.

Nhưng giá trị nổi bật nhát của tác phẩm này là ở chỗ: “khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ bị xã hội cướp mất tất cả nhân hình, nhân tính” (Từ điển Văn học tập I). Nhà văn đã rọi sáng của tình thương yêu vào tận đáy tâm hồn đen tối của “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Trong một đêm kia, hắn gặp Thị Nở. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt được khơi dậy. Không ngờ, sau cái đêm “trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng” ấy, nếu Chí Phèo cứ “vơ vẩn nghĩ mãi” thì Thị Nở, cô gái ma chê quỷ hờn kia, cũng chẳng yên lòng. Trở về nhà, thị định ngủ nhưng không thây buồn ngủ, nên thị cứ “lăn ra lăn vào”. Tình thương yêu mộc mạc cộng với sự chăm sóc giản dị của thị đã đánh thức lương tri trong Chí. Suốt năm ngày đêm cả hai đều chìm đắm trong men say của tình yêu. Tỉnh ra, Chí chợt bâng khuâng. Sau bao năm, lần đầu tiên Chí phát hiện ra những âm thanh rộn ràng của cuộc sống xung quanh: từ tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói lao xao của mấy người đàn bà đi chợ bán vải về, đến tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi nao nức thiết tha của cuộc sống vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa được khơi dậy của Chí. Cái ước mơ bình dị ngày nào “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải…” bỗng dưng trở lại với Chí. Dưới ánh sáng của tình yêu, Thị Nở bỗng trở thành người đàn bà có duyên, cũng biết “lườm yêu” biết e lệ, thẹn thùng, biết “ngưởng ngượng mà thinh thích” khi nghe hai tiếng “vợ chồng”. Cũng là lần đầu tiên Chí thảng thốt nhận ra “mình đã ở bên kia dốc cuộc đời” hướng về tuổi già sắp tới, hắn run sợ trước cảnh huống “ốm đau, rét mướt, cô độc” đặc biệt là sự cô độc thật là đáng sợ.

Cũng may mà Thị Nở đã mang bát cháo hành tới, nếu không chắc là hắn đã khóc. Giây phút ấy “hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi! Sao mà hắn hiền…” Tình yêu của Thị Nở, phút này đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… Thị có thể sống yên Ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Và hắn nói. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Rõ ràng là phút này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy đã thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn “thế này” nghĩa là muốn sống như một con người đúng nghĩa.

Chí Phèo hi vọng Thị Nở sẽ là cái cầu nối được hắn trở về với cuộc dời. “Nhưng hỡi ôi! Con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại!” Bà cô của Thị Nở đã đứng ra để ngăn chặn. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác bà đã quen coi Chí là một thằng lưu manh, hơn thế nữa là một con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng “dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn đã bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng tột cùng. Khốn khổ chưa! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn chỉ thoang thoáng thấy hơi cháo hành”. Càng thấm thìa thêm nỗi đau vô hạn của thân phận mình “hắn ôm chặt khóc rưng rức”…

Đau đớn, xót xa, bế tắc Chí Phèo xách dao miệng dọa: “đi giết cả nhà con đì Nở” nhưng bước chân lại đưa Chí tới nhà Bá Kiến đâm chết lão rồi tự sát. Chí đã chết ngay trên ngưỡng cửa cuộc đời khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước anh, không cho anh trở lại. Không chấp nhận được cuộc sống thú vật trước đó và thấm thìa tội ác của kẻ cướp đi quyền làm người của mình, Chí xách dao đến nhà nó dõng dạc đòi quyền làm người rồi giết chết kẻ thù và kết liễu cuộc đời mình. Câu hỏi cuối cùng của Chí: Ai cho tao làm người lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? là một câu hỏi đầy phẫn uất, đau đớn, day dứt mãi lòng người đọc bao thế hệ !

Chí Phèo đúng là một hiện thân đầy đủ nhất của những nỗi khốn khổ, tủi nhục của những người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến đương thời? bị chà đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn xây dựng tính cách nhân vật sinh động và sắc sảo, Nam Cao đã đặt ra và giải quyết tấn bi kịch của người nông dân thời ấy: Bị cự tuyệt quyền làm người. Từ cuộc đời của nhân vật này, nhà văn đã tái hiện sinh động cụ thể và sắc sảo những hiện thực của xã hội đương thời đưa ra lời tố cáo mạnh mẽ sự tàn nhẫn vô nhân của xã hội ấy. Qua nhân vật điển hình xuất sắc Chí Phèo, nhà văn đã lên tiếng bảo vệ cho quyền làm người. Như thế, Nam Cao chẳng những là một nhà văn hiện thực xuất sắc mà là nhà văn có tinh thần nhân đạo cao cả.

BÀI LÀM 2

Cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ… trong giai đoạn văn học trung đại, Hồ Chí Minh, Tố Hữu… trong giai đoạn văn học hiện đại, Nam Cao là gương mặt quen thuộc, điển hình trên văn đàn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945. Phong cách của Nam Cao không thể lẫn vào đâu được: bình dị, chân thực nhưng thấm đượm tình nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Một trong những mảng đề tài chủ yếu ữong truyện ngắn của Nam Cao là sự tha hóa của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Trong số các truyện ngắn đó, phải kể đến Chí Phèo – tấn bi kịch chung cho những người nông dân nghèo bị tha hóa. Đặc biệt trong phần cuối của câu chuyện, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo càng đau đớn xót xa hơn.

Mở đầu trang viết, hình ảnh một Chí Phèo bất hạnh, đơn độc đập vào mắt người đọc “trần truồng” và “xám ngắt” “ữong một cái váy” để bên cạnh lò gạch cũ. Chí không hề biết bi kịch cuộc đời mình bắt đầu từ đâu, không cha, không mẹ, không chốn nương thân rồi sau đó trải qua bao năm cay đắng vất vả. Chí trở thành một chàng thanh niên theo đúng nghĩa. Nhưng ngờ đâu, chính vì là thanh niên nên Chí phải đi tù bởi cái xã hội quái gở. Sau 7, 8 năm biệt tích, Chí trở về làng Vũ Đại với một con người hoàn toàn khác: một con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Vậy là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó là cha mẹ đẻ ra Chí Phèo, đẻ ra nhân cách tha hóa Chí Phèo. Và sau cái đêm yêu Thị Nở, Chí Phèo đã cay đắng nhận ra bi kịch cuộc đời mình. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối đằng đấng của Chí Phèo. Bằng sự chăm sóc ân cần chu đáo và tình yêu thương mộc mạc giản dị, đã khơi dậy bản chất lương thiện đã bị đánh mất ữong con người của Chí.

Lần đầu tiên sau nhiều năm, Chí nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hàng ngày: tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quá đỗi quen thuộc và gần gũi với con người lại hết sức lạ với Chí. Nhưng dù thế nào đi nữa Chí Phèo cũng là người lao động cùng khổ với bản tính chân chất, thật thà nên với những động tác giản đơn của cuộc sông thường nhật như vậy, linh hồn quỷ dữ trong con người Chí biến mất mà thay vào đó là vẻ mặt và nụ cười thật hiền. Hắn nhớ lại những ngày xa xưa, những ngày mà hắn đã từng mơ ước có được “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vỢ dệt vải”. Càng hồi tưởng càng buồn, buồn đến não ruột. Nếu Thị Nở không mang bát cháo sang thì có lẽ “nó khóc mất”. Có lẽ đây là lần đầu tiên Chí được nếm mùi cháo hành thơm ngon và cũng là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay người đàn bà. Bát cháo nóng mới ngon làm sao. Trước đây, muốn được ăn thì phải dọa, phải cướp, phải rạch mặt ăn vạ… Càng nghĩ Chí càng thấy cay đắng. Nhưng giờ đây, vị thơm của hành và tình người tha thiết, nhân hậu đã hoàn toàn dành cho Chí. Chí cảm động biết bao. Đây là hương vị của cháo hành hay là vị ngọt của một tình yêu chân thành mà Chí hằng mơ ước? Hạnh phúc thật giản dị mà thấm thìa nhường nào. Lần đầu tiên “mắt Chí ươn ướt” và cười thật hiền. Chính lúc này đây. Chí Phèo đã tỉnh, tỉnh sau bao cơn say và đã thực sự là một con người. Anh “thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người biết bao” . Dường như Chí đã thực sự hoảng sợ cho quá khứ của mình khi mà Chí biết đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không nhìn nhận là một con người. Quay về với thực tại, với một vẻ mặt rất phong tình, hắn bảo Thị Nở “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Thật tội nghiệp! Qua câu nói đó đủ thây cái khát khao muốn được làm người bình thường của Chí. Có nghe hắn chửi, có nhìn hắn rạch mặt ăn vạ, có mục kích được cái cảnh hắn vác dao đâm thuê cho người khác… thì chúng ta mới xúc động thực sự trước cái khát khao hết sức bình dị ấy. Lòng yêu thương, cái tình người cảm động đã thức dậy trong con người của Chí. Phần sâu kín nhất của tâm hồn và cái bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân đã bị vùi dập bấy lâu nay lại bừng sáng.

Tình yêu đã thức tỉnh được con người mà trước nay xã hội chối bỏ. Tình yêu đã nhẹ nhàng hé mở cho anh con đường trở lại làm người. Anh lo sợ, hồi hộp… Đây chính là cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của Nam Cao đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Nhưng khốn nạn thay cho những kẻ khó, hạnh phúc chưa được bao lâu thì Chí bị Thị Nở phụ bạc. Tuy nhiên người đàn bà tội nghiệp kia đâu có tội gì mà chỉ vì hoàn cảnh của Thị. Thị nghĩ bụng “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Vậy là, cánh cửa duy nhất đi vào thế giới lương thiện chỉ vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Bà cô Thị Nở mặc sức đay nghiến, chửi bới đôi trai gái khốn khổ. Bà thấy nhục nhã và “gào lên như một con ma dại”. Bà cô Thị Nở đã đang tâm dập tắt ngọn lửa tình yêu vừa chớm sáng giữa Chí Phèo – Thị Nở một cách cay nghiệt. Mà xét cho cùng thì cũng đúng thôi, đã từ lâu rồi, cả cái làng Vũ Đại này có ai xem Chí là người đâu. Chí chỉ là một thằng chuyên “rạch mặt ăn vạ” thì làm sao bà cô Thị Nở cho phép cháu mình lấy Chí. Chí thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Chí đang chuẩn bị tinh thần bước vào căn nhà lương thiện thì chính xã hội vạn ác đã vô tình hay cố ý đẩy Chí ra xa. Chí càng với thì nó càng xa thêm, cứ như vậy cho đến khi nó vụt hẳn ra khỏi tầm tay của Chí. Chí cảm thây hết sức hụt hẫng rồi quyết định vác dao đến nhà bà cô Thị Nở để “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh để thấm thìa hết nỗi cay đắng của cuộc đời mình và quan trọng hơn, tỉnh để nhận ra kẻ đã làm tha hóa nhân cách, hủy hoại cuộc đời mình.

Vậy thì lần thứ ba Chí đến gặp Bá Kiến không phải đến để xin tiền như mọi khi mà đến để đòi lương thiện, đòi quyền làm một con người đúng nghĩa. Đau đớn, Chí hét lên: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…”. Đây chính là những lời vạch mặt Bá Kiến hết sức đanh thép, là bản cáo trạng đầy đủ nhất về tội lỗi của tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến. Tội ác của hắn không gì thâm độc hơn là hủy hoại nhân cách của một con người, khiến Chí là một con người nhưng sống kiếp sống của thú vật. “Nó phải chết” là bản án dành cho nó, vậy là Chí vung dao giết Bá Kiến. Lúc này đây, ý thức về nhân phẩm đã trỗi dậy trong anh – dẫu quá muộn màng và Chí biết rằng, tội lỗi đã hằn sâu trên khuôn mặt, anh không thể sống lưu manh, sống như thú vật được nữa, nên một lần nữa, lưỡi dao oan nghiệt đã kết thúc một kiếp người. Chí đã chết bi thảm trong đau đớn cả tinh thần lẫn thể xác, chết trong tiếng kêu uất hận đầy đau thương, nhưng cho dù đã chết đi. Chí vẫn luôn thắp sáng ngọn lửa khao khát được làm người lương thiện của một người nông dân bị tha hóa.

Những câu hỏi cuối cùng của Chí là tiếng kêu đau thương tuyệt vọng của cả một kiếp người đau khổ. Những câu hỏi sẽ mãi mãi làm day dứt lòng người đọc. Qua đó đủ thấy được toàn cảnh bức tranh hiện thực trong xã hội cũ – những con người lương thiện bị cái xã hội tàn bạo, vô nhân đạo vùi dập nhân tính. Chí Phèo không phải là hiện tượng ở một con người mà là hiện tượng lưu manh hóa của thanh niên ở nông thôn Việt Nam ưong xã hội nửa thực dân nửa phong kiến. Câu chuyện chứa chan tình cảm nhân đạo, mang tính nhân văn sâu sắc qua nghệ thuật viết truyện hết sức độc đáo, xứng đáng là một tác phẩm có thể làm mờ hết các tác phẩm truyện ngắn khác cùng thời, đưa Nam Cao trở thành bậc thầy viết truyện ngắn ưong các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945.

Bài viết Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-tac-pham-cung-ten-cua-nam-cao/feed 0 1048
Phân tích Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ https://hocvet.com/phan-tich-buc-tranh-hien-thuc-noi-pho-huyen-ngheo-luc-chieu-toi-trong-truyen-ngan-hai-dua-tre/ https://hocvet.com/phan-tich-buc-tranh-hien-thuc-noi-pho-huyen-ngheo-luc-chieu-toi-trong-truyen-ngan-hai-dua-tre/#respond Sun, 12 Sep 2021 10:17:09 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=870 Phân tích Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam –  Trong nền văn học đặc biệt sôi động, phong phú thời kì 1930 – 1945 với sự xuất hiện gần như đồng thời một loạt tài năng chói sáng, giọng vãn nhỏ nhẹ, điềm tĩnh mà lắng sâu, nhiều dư vị của tác phẩm Thạch Lam vẫn có sức truyền cảm đặc biệt. Tên tuổi Thạch Lam đã nổi bật như là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam

Bài viết Phân tích Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam –  Trong nền văn học đặc biệt sôi động, phong phú thời kì 1930 – 1945 với sự xuất hiện gần như đồng thời một loạt tài năng chói sáng, giọng vãn nhỏ nhẹ, điềm tĩnh mà lắng sâu, nhiều dư vị của tác phẩm Thạch Lam vẫn có sức truyền cảm đặc biệt.

Tên tuổi Thạch Lam đã nổi bật như là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. “Hai đứa trẻ” (in trong tập “Nắng trong vườn ”, xuất bản năm 1938) là một trong những truyện ngắn hay nhất, tiêu biểu nhất cho khuynh hướng tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của nhà vãn có biệt tài vể truyện ngắn đó.

Giống như phần lớn truyện ngắn khác của Thạch Lam, Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện. Hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát trước cửa nhà của một phố huyện, ngắm cảnh phố xá lúc chiều muộn đi vào đêm; tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua, rồi mới khép cửa hàng đi ngủ…

Truyện chỉ có thế, nó có thể làm thất vọng những người đọc nông nổi thích đọc những truyện nhiều biến cố, có tính kịch để được hồi hộp. Tuy không có cốt truyện nhưng tác phẩm “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, vô vị, mà trái lại, rất thấm thìa, nhiều dư vị và những trăn trở, day dứt.

Truyện mở ra bằng cảnh chiều muộn ở một miền quê, “một chiểu êm ả như ru”. Rồi màn đêm dần dần buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…”. Dưới ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương của Thạch Lam, bức tranh quê ở đây rất bình dị mà rất đỗi thân thiết và nén thơ.

Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết đó là bức tranh đời sống. Đó là đời sống một phố huyện nghèo lúc chiều tối và đêm xuốns, được quan sát, cảm nhận qua tâm hồn nhạy cảm, ngây thơ của cô bé Liên. Chính bức tranh đời sống vừa rất chuẩn mực chân thực, vừa thấm đượm cảm xúc trữ tình này, đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt, là cảm giác chủ yếu của người đọc sau khi gấp trang sách. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát lên từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo đó.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện nghèo nơi chúng đang ở lúc chiều tối, có những gì?

Có cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ “đã vãn từ lâu”. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ đã tan càng phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện nghèo: “Trên đất chi còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Và cái mùi vị rất quen thuộc mà chị em Liên có cảm tưởng là “mùi riêng của đất, của quê hương này” chính là mùi vị của nghèo khổ, lầm than: mùi âm ẩm bốc lên lẫn mùi cát bụi, rác rưởi… của cái chợ nghèo.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra: “Mấy đứa trẻ con nhà nghẽo ở ven chợ cúi khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại” \ mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng, xách điếu đóm ra dọn hàng, “Ngày, chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước này (…). Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối đến đêm”, nhưng “ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì!”-, “gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”, “Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường…”. Và hai chị em Liên, với “của hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Rồi hình ảnh bà cụ Thi, hơi điên, mua rượu uống cười khanh khách, lảo đảo đi vào bóng tối… Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ.

Qua con mắt cô bé Liên, tất cả cuộc sống phố huyện chìm dần trong đêm tối mênh mông. Chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, cái bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn ,    hoa kì vặn nhỏ của Liên…, tức chỉ là mấy đốm sáng lù mù. Những đốm lửa nhỏ

nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện trở nên sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối càng thêm mịt mùng, dày đặc mà thôi. “Tất cả phô’xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” ấy trở đi trở lại tới 7 lần trong truyện, là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, leo lắt, mù tối trong đêm đen mênh móng của cuộc đời. Truyện kết thúc cùng với hình ảnh ngọn đèn tù mù của chị Tí đi vào giấc ngủ chập chờn của cô bé Liên.

Cảnh phố huyện chiều tối hôm nay cũng giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong “Hai đứa trẻ” chỉ là hai đứa trẻ; chúng không thể có ý thức rõ rệt về tình cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống, cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn trong trẻo, ngây thơ nhưng nhạy cảm, cô bé Liên đã cảm nhận thấm thìa, tuy chỉ là vô thức tình cảnh đó, khát vọng đó. Chính vì khát khao được thoát khỏi cảnh tù đọng, mù tối ấy mà Liên đêm đêm cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu đêm rầm rộ với “cái toa đèn sáng trưng” là hình ảnh cụ thể của “một cái gì tươi sáng” mà cô mong đợi. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác di qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh sáng lửa của bác Siêu”.ngày mai. Bới vì, chiều tối nào cũng vậy, mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng; chị em Liên lại đếm những phong thuốc lào, những bánh xà phòng, tính tiền hàng và tối nào cũng “ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng” để ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố; tối nào bác phở Siêu cũng lại gánh hàng ra và thổi lửa, bác xẩm cũng lại trải chiếu và bày cái thau sắt… Mọi người lại chờ đợi những điều mọi ngày họ vẫn chờ đợi; mấy chú lính trong huyện hay người nhà cụ thừa, cụ lục đi gọi người đánh tổ tôm rẽ vào uống nước, hút thuốc… Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại ngày này sang tháng khác, đon điệu, uể oải, buồn tẻ. Nhưng biết làm sao được! Không phải những con người khốn khổ ấy không hi vọng – không hi vọng thì làm sao sống được? “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Có điều, sự mong đợi ấy thật tội nghiệp: “một cái gì tươi sáng” ấy là “một cái gì” thật mơ hồ; và biết đến bao giờ nó mới đến?

“Hai đứa trẻ” (cũng như phần lớn truyện ngắn Thạch Lam) không đi vào những chuyện áp bức bóc lột, cũng không kể tỉ mỉ những cảnh ngộ thương tâm, mà chỉ lạng lẽ đưa ra những hình ảnh xoàng xĩnh quen thuộc ở một phố huyện nghèo, qua con mắt của một đứa trẻ! Nhưng bức tranh đời sống phố huyện nghèo trong truyện không phải không chân thực (chân thực trong từng chi tiết miêu tả và chân thực trong chiều sâu: nói được thực trạng của đời sống một cách ám ảnh, rất ^  thấm thìa), đồng thời, chan chứa niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh, bế tắc, bị chôn vùi trong kiếp sống tối tăm.

Bài viết Phân tích Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/phan-tich-buc-tranh-hien-thuc-noi-pho-huyen-ngheo-luc-chieu-toi-trong-truyen-ngan-hai-dua-tre/feed 0 870
Ngữ Văn Lớp 11 – Những Bài Văn Hay 11 https://hocvet.com/lop-11/nguvan11/ https://hocvet.com/lop-11/nguvan11/#respond Sun, 12 Sep 2021 09:54:39 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=835 Bài viết Ngữ Văn Lớp 11 – Những Bài Văn Hay 11 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Bài viết Ngữ Văn Lớp 11 – Những Bài Văn Hay 11 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/lop-11/nguvan11/feed 0 835
Cảm nhận về đoạn kịch Thề Nguyền (Tình yêu và thù hận) trong Rômêô và Giu-li-ét https://hocvet.com/cam-nhan-ve-doan-kich-nguyen-tinh-yeu-va-thu-han-trong-romeo-va-giu-li-et/ https://hocvet.com/cam-nhan-ve-doan-kich-nguyen-tinh-yeu-va-thu-han-trong-romeo-va-giu-li-et/#respond Sun, 12 Sep 2021 06:33:32 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=784 Cảm nhận về đoạn kịch Thề Nguyền (Tình yêu và thù hận) trong Rômêô và Giu-li-ét của Uy-li-am Sếch-xpia – Sếch-pia (1564 – 1616) là kịch tác gia vĩ đại của nước Anh thời Phục hưng. Ông để lại 37 vở hài kịch và bi kịch, phần lớn là những kiệt tác trong kho tàng nghệ thuật nhân loại. Giấc mộng đêm hè, Ô-ten-lô, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Hăm-lét, Chuyện cổ tích mùa đông, Bão táp… đã lưu giữ trong tâm hồn khán giả những nhân vật – hình tượng tuyệt vời về tình yêu lứa đôi về khát vọng tự do, về

Bài viết Cảm nhận về đoạn kịch Thề Nguyền (Tình yêu và thù hận) trong Rômêô và Giu-li-ét đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Cảm nhận về đoạn kịch Thề Nguyền (Tình yêu và thù hận) trong Rômêô và Giu-li-ét của Uy-li-am Sếch-xpia – Sếch-pia (1564 – 1616) là kịch tác gia vĩ đại của nước Anh thời Phục hưng. Ông để lại 37 vở hài kịch và bi kịch, phần lớn là những kiệt tác trong kho tàng nghệ thuật nhân loại. Giấc mộng đêm hè, Ô-ten-lô, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Hăm-lét, Chuyện cổ tích mùa đông, Bão táp… đã lưu giữ trong tâm hồn khán giả những nhân vật – hình tượng tuyệt vời về tình yêu lứa đôi về khát vọng tự do, về lòng nhân ái mênh mông, vể niềm tin sáng ngời vào khả năng hướng thiện vươn tới hạnh phúc của con người, nhất là thế hệ trẻ.

“Rô-mê-ô và Giu-li-ét” là một trong những kiệt tác của sếch-xpia được diễn lần đầu tiên vào năm 1595. Vở kịch được xây dựng theo một câu chuyên về mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét xảy ra tại Vê-rô-na, nước Ý thời trung cổ. Giu-li-ét và Rô-mê-ô là đôi trai tài gái sắc yêu nhau một cách say đắm, bắt chấp mối thù hận dai dẳng giữa hai dòng họ. Cái chết vô cùng thương tâm của đôi tình nhân đã thức tỉnh lương tri khiến hai dòng họ tự nguyện xóa đi mối thù xưa và cùng dựng cho Giu-li-ét và Rô-mê-ô bức tượng bằng vàng nhằm lưu truyền hậu thế về một mối tình chung thuỷ cao đẹp. Chủ đề tình yêu, sức mạnh của tình yêu chiến thắng hận thù đã được thể hiện một cách cảm động qua vở bi kịch này.

Cảnh tình tự và thề nguyền là đoạn kịch trích ở Hồi II, cảnh 2 vở bi kịch “Rô-mê-ô và Giu-ỉi-ét”.

  1. Không phải là cảnh “cách nhau một giậu mồng tơi”, một giàn thiên lí,… mà nàng và chàng, người thì xuất hiện trên cửa sổ ban công, người thì đứng giữa vườn khuya. Sau buổi dạ hội hóa trang, Rô-mê-ô và Giu-li-ét lại gặp nhau lần thứ hai, khi mà tình yêu như ngọn lửa mới nhen bùng cháy. Gần giống như giai nhân trong tình sử ngày xưa “xăm xăm băng lôi vườn khuya một mình”, Rô-mê-ô đã mạo hiểm vượt tường cao lọt vào vườn hoa gần phòng ngủ của Giu-li-ét để chờ người yêu. Hành động ấy vô cùng nguy hiểm vì hai dòng họ đang hận thù nhau. Nếu gia nhân của gia đình Ca-piu-lét bắt gặp thì Rô-mê-ô khó lòng mà thoát chết. Nhưng tiếng gọi của trái tim, tiếng gọi của tình yêu đã cho Rô-mê-ô thêm nhiều sức mạnh và lòng dũng cảm như chàng đã nói: “Kẻ chưa hề bị thương thì sợ gì sẹo”. Lưỡi kiếm của lũ gia nhân dù có sắc, có nhọn đến đâu, nhưng đối với Rô-mê-ô trong giờ phút thần tiên ấy thì chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đáng sợ!. Cảnh tình tự diễn ra trong một không gian nghệ thuật thần tiên thơ mộng, khi “mảnh trăng thiêng liêng đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quá”. Khu vườn khuya của gia đình quý tộc tràn ngập ánh trăng long lanh.

Giữa khung cảnh thơ mộng ấy, Giu-li-ét xuất hiện. Nàng xinh đẹp như ánh sáng “lóe lên” trên cửa sổ. Rô-mê-ô bị choáng ngợp cảm thấy “nàng Giu-ỉi-ét là mặt trời”, là “vừng đông” vô cùng “đẹp tươi”. Chàng ngây ngất trước vẻ kiều diễm của người yêu, rồi khẽ thốt lên: “Ôi, người mà ta sùng kính, người mà ta yêu dấu!…”.

Rô-mê-ô say đắm ngắm nhìn ánh mắt và gò má người yêu. Ánh mắt của nàng “lấp lánh” huyền diệu nguyên là “hai ngôi sao dẹp nhất trên bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ đôi mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về”. Đôi gò má của nàng “đẹp rực rỡ” làm cho các vì tinh tú trên bầu trời “phải hổ ngươi”, “như ánh dương làm ánh đèn phải thẹn thùng”. Chàng đắm đuối, đê mê và khao khát: “Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn gò má ấy!”, vẻ đẹp của Giu-li-ét là vẻ đẹp của một mĩ nhân lí tưởng, ỉa “nàng tiên”, là “sứ giả nhà trời”. Giữa đêm khuya, nàng ngự trên đinh đầu tình nhân, “nàng tỏa ánh hào quang như một sứ giả nhà trời có cánh dang cưỡi những đám mây lười nhẹ lướt trên không trung”.

Rô-mê-ô sử dụng nhiều ẩn dụ so sánh, nhân hóa lúc nói để biểu lộ niềm vui sướng hạnh phúc và sự say mê được ngắm nhìn, được chiêm ngưỡng “nàng tiên” của lòng mình. Nhan sắc của Giu-li-ét được cảm nhận với tất cả tâm hồn đắm đuối của một chàng trai hào hoa đa tình; Ngôn ngữ của Rô-mê-ô là một thứ ngôn ngữ trang trọng của tầng lớp quỷ tộc được cách điệu, nhưng rất hoa mĩ, phong tình. Sếch-xpia vốn là nhà thơ viết rất hay về tình yêu, nên ông đã sử dụng những lời độc thoại của Rô-mê-ô bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ.

  1. Tiếp theo là cảnh thề nguyền của lứa đôi
  • Giu-li-ét cất tiếng thiết tha gọi người yêu: “Ôi, Rô-mê-ô, hỡi Rô-mê-ô!”. Nàng băn khoăn trách sự trớ trêu của số phận: “Sao chàng lại mang tên dó nhỉ?” Nàng nêu lên điều kiện khi hỏi Rô-mê-ô: “Chàng hãy từ bỏ thân phụ đi, từ bỏ tên họ đi; hoặc nếu không thì chàng hãy thề là chàng yêu em đi, em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-Iét nữa”. Tất cả vì tình yêu mà anh và em hãy từ bỏ gia đình, từ bỏ dòng họ, nghĩa là trút bỏ được mối thâm thù truyền kiếp.

Với Giu-li-ét thì chỉ tên họ của Rô-mê-ô là “thù địch” của nàng mà thôi. Nàng thiết tha cầu khẩn: “Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác di!”. Bông hồng nếu mang một tên khác thì “hương thơm vẫn cứ ngọt ngào”, cũng như Rô-mê-ô nếu chẳng mang tên Rô-mê-ô nữa thì “mười phân chàng cũng vàn mười phân”. Nàng van xin chàng hãy hi sinh vì một tình yêu đẹp: “Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy từ bỏ tên họ di. Cái tên kia dâu có phải là xương thịt của chàng, chàng hãy dổi I1Ó lấy tấm thân em”. Khi ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy tâm hồn, Giu-li-ét cảm thấy băn khoăn, bối rối giữa mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ với mối tình thắm thiết mà nàng đang ôm ấp. Nàng tha thiết van xin người yêu. nàng cầu mong được sống trong hạnh phúc tình yêu. Giọng của nàng nghe thật nồng nàn, dễ thương: “Rô-mé-ô chàng ơi, chàng hãy từ bó tên họ di… chàng hãy đổi nó lấy cả tấm thân em”.

“Lặng nghe lời nói như ru…”, Rô-mê-ô nhẹ nhàng nói với Giu-li-ét: “Chỉ cần được nàng gọi là người yêu, là tôi xin tức thì nhận tên thánh mới…”. Tinh yêu có thể cho thêm sức mạnh và nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Rô-mê-ô sẩn sàng chấp nhận mọi “cái giá” của tình yêu. Chàng “thù ghét” cái tên của mình, sẵn sàng “xé nát vụn” nó ra bởi vì cái tên ấy là “kẻ thù của nàng” – nàng tiên yêu quý mà chàng tôn thờ. Vì nàng tiên kiều diễm mà Rô-mê-ô tự phủ định “tôi chẳng phải là Rô-mê-ô mà cũng chẳng thuộc họ Môn-ta-ghiu” nếu nàng “chẳng ưa tên họ dó”.

Qua đó, ta thấy vì tình yêu, vì Giudi-ét mà Rô-mê-ô “từ bỏ tên họ” của mình, mong có thể xóa đi mối hận thù dai dẳng của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét. Đức hi sinh của Rô-mê-ô thật cao cả.

  • Cuộc tự tình của “đôi trẻ” lại chuyển sang một vấn đề mới. Giu-li-ét lo cho tính mạng của người yêu dám cả gan vượt tường cao, nếu bị phát hiện thì “chàng khó lòng thoát chết”; nếu họ hàng Ca-piu-lét bắt gặp thì “họ giết chàng mất”. “Nhờ đôi cánh của tình yêu” mà Rô-mê-ô vượt qua được tường cao. Sức mạnh của ái tình thật là ghê gớm: “Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”, bởi vậy “mấy bức tường đá ngăn sao được ái tình. Mà cái gì tình yêu dám làm là làm được”. Rô-mê-ô chỉ cầu mong người yêu nhìn mình bằng “khóe mắt yêu thương” để vượt qua hận thù. Chàng cảm thấy cuộc đời vô nghĩa nếu “thiếu tình nàng”, nếu “chẳng được nàng đoái hoài” che chở. Rô-mê-ô cho biết: “Ái tình, ái tình đã xui tôi tìm kiếm. Ái tình dã cho tôi lời khuyên; và tôi đã cho ái tình đôi mắt”. Ái tình đã làm tăng thêm tinh thần dũng cảm để “liêu mình”, để dấn thân tìm kiếm, như chàng thổ lộ: “Tôi chẳng phải là tay thuỷ thủ, nhưng giá nàng có ở nơi bờ biển xa xăm nhất, thì tôi cũng sẵn sàng liều mình vì báu vật”.
  • Ngây ngất trong men say tình ái, nhất là khi được nghe những lời nói chan chứa yêu thương của Rô-mê-ô, má của Giu-li-ét “ừng đỏ” lên, nàng “muốn vượt vòng lể giáo”. Nàng tin Rô-mê-ô đã dâng hiến cho minh một trái tim yêu thương. Nàng xin người yêu “đừng thề thốt”; nàng bộc bạch: “Chàng Môn-ta-ghiu tuấn tú ơi, em yêu chàng say đắm”, và “xin chàng hãy tha thứ cho em và đừng vì nỗi lòng yếu đuối bị bắt cliựt trong đêm tối mà ngờ em là kẻ trăng hoa”. Qua đó, ta thấy Giụ-li-ét rất trân trọng, chân tình trong mối tình đầu nồng nàn say đắm. Nàng dã thể hiện một nhân cách, một phẩm giá trong sạch của một tiểu thư con cháu của dòng họ quý tộc danh giá.
  • Khi nghe Rô-mê-ô nói: “Tỏi xin tlỉê có mảnh trăng thiêng liêng kia đang dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”, thì Giu-li-ét xin người yêu “đừng lấy trăng kia mà thề thốt”, vì vầng trăng nghiêng ngả mà mỗi tháng lại thay đổi đường đi lối về. Nàng sợ tình chàng cũng sẽ như trâng kia thay đổi. Nếu chàng muốn thề thì “hãy đem tấm thân tuấn tú kia ra mà thề; đó là vị thần mà em thờ phụng, và em sẽ tin chàng”.

Giu-li-ét nói lên niềm sung sướng được gặp người yêu trong đêm nay. Trước khi chào tạm biệt, lui vào nhà, nàng hi vọng “nụ ái tình” sẽ nở thành “một đoá hoa lộng lẫỳ’\ nàng cầu cho “sự thanh thản êm đềm của lòng mình cũng sẽ đến với trái tim” người yêu.

Thời gian như ngừng trôi. Tinh lưu luyến của sợi tơ tình cứ giăng mắc mãi. Rô-mê-ô khẽ thốt lên: “Ôi! Nàng chẳng cho tôi được thỏa nguyện sao?”, rồi Rô-mê-ô bày tỏ: “Tôi ước ao được cùng nàng trao lời thê chung thuỷ”. Và khi nghe Rô-mê-ô e ngại người yêu lấy lại lời thề thì Giu-li-ét cởi mở lòng mình, tâm hồn mình với tất cả niềm tin của một tình yêu nồng cháy: “Em chì muốn dược rộng lòng hào phóng và tặng chàng lần nữa. Thật ra thì điều em ước, em đã nói rồi; lòng em mênh mông, tình em thăm thẳm như biển cả, em tặng chàng thì em lại càng có nhiều, vì cả hai đều vô tận”.

Trước khi nghe nhũ mẫu gọi phải trở vào phòng, Giu-li-ét nhẹ nhàng vỗ về an ủi, “xin chàng hãy giữ lòng chung thuỷ; chàng đợi em một clìút, em sẽ trở lại ngay”. Đứng một mình giữa vườn khuya, trong khoảnh khắc ấy, Rô-mè-ô sung sướng cảm thấy mình được sống trong một giấc mơ quá êm dịu của đèm thần tiên.

  1. Giu-li-ét trờ ra. Nàng muốn ngỏ với người yêu vài lời. Nếu chàng muốn cùng em “xe tơ kết tóc”, “muôn hôn lễ cử hành ngày nào, chỗ nào”, thì “lúc dó, em sẽ trao thản gửi phận trong tay chàng và nguyện theo phu quân tới nơi chân trời góc bể’. Nhưng nếu chàng “clìẳng định”, thì “xin chàng dửng theo đuôi làm gì nữa, để mặc em với nỗi khổ đau”. Tiếng nhũ mẫu liên tiếp cất lên gọi tiểu thư. Trước khi tạm biệt lui vào phòng, nghe Rô-mê-ô nói: “Tỏi xin thề trước linh hồn…”, thì Giu-li-ét chúc người vêu “một đêm tốt lành”. Rô-mè-ô cảm thấy cô đơn vì “thiếu ánh sáng của nàng…”, cảm thấy bơ vơ hơn bao giờ hết.

Rô-mê-ô quay trở lại khi Giu-li-ét lại xuất hiện ở cửa sổ. Đôi uyên ương lưu luyến không mùốn rời nhau. Nghe Giu-li-ét “nhắc di nhắc lại” tên người yêu mà đã khàn cả giong thì Rô-mê-ô vô cùng sung sướng như được nghe “một bản dàn êm dịu” . Hai người hẹn ước “chín giờ ngày mar, Giu-ỉi-ét sẽ cho người tới gặp Rô-mê-ô để bàn định ngày nào, nơi nào cử hành hòn lễ. Khống phải là “Ba thu dồn lại một ngậy dài ghê”, mà Giu-li-ét lại cảm thấy giâv phút dợi chờ thật vô cùng lê thê, đằng đẵng: “Từ giờ đến lúc đó cứ đằng đẵng như hai chục năm trường”.

Đêm đã tàn, trời sắp sáng nhưng đôi tình nhân cứ lưu luyến, dùng dằng mãi không muốn chia tay. Rô-mê-ô cứ muốn “mãi dứng lại nơi đây”, ao ước “được làm con chim” sống trong tình thương và được người yêu “ve vuốt” mãi mãi. Khi Giu-li-ét trở vào, Rô-mê-ô còn lại một mình giữa khu vườn xa lạ, chàng chỉ cầu mong người yêu và bản thân mình được ngủ ngon, được thanh thản, được nghỉ ngơi êm đềm. Hạnh phúc đã ở trong tầm tay, chàng nghĩ là phải đến ngay tu phòng của cha linh hồn để “cầu người giúp đđ’ và ngỏ cùng người nỗi vui sướng tràn trề.

  1. Cuộc tình tự và thể nguyền đã được khép lại một cách êm đẹp. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã dũng cảm và quyết tâm vượt qua mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ, thề nguyền gắn bó chung thuỷ trong một tình yêu thắm thiết nồng nàn. Hai người đã bí mật đính ước tổ chức hôn lễ. Tmh yêu chân chính, trong sáng đã cho đôi lứa một sức mạnh to lớn để vươn tới hạnh phúc.

Bằng trái tim nhân hậu và cảm hứng nhân văn dào dạt, Sếch-xpia như người cha tinh thần đã nâng đỡ hai tâm hồn Rô-mê-ô và Giu-li-ét xây đắp giấc mộng thần tiên cho một tình yêu sắt son chung thuỷ.

Đêm tự tình của đôi lứa diễn ra dưới vầng trăng thiêng liêng dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả; tuy không có chén rượu thẽ nguyền nhưng sự chung thuỷ đã được khẳng định và khắc cốt ghi tâm.

Tinh trường diễn ra chầm chậm, đầy lưu luyến với bao mộng ảo của một đêm thần tiên. Lời thoại của Rô-mê-ô và Giu-li-ét thấm đẫm chất thơ, chất thơ của tình người thơm thảo. Tiếng gọi của nhũ mẫu cất lên liên tiếp mấy lần. Hình ảnh của tiểu thư lúc vào lúc ra đã làm cho tính kịch thêm phần hồi hộp, hấp dẫn.

“Dưới trăng đôi trẻ đinh ninh thề nguyền” là một trích đoạn kịch đặc sắc, hấp dẫn đã thể hiện ngọn lửa lung linh huyền diệu của một tình yêu tuyệt đẹp. Sếch-xpia đã khẳng định sức mạnh của ái tình, sự kì diệu của đôi cánh tình yêu, và đôi lứa đã trao cho “ái tình đôi mắt tinh tường, nhạy cảm”. Cách thể hiện lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” trong vở kịch “Rô-mê-ô và Giu-ỉỉ-ét” rất sáng tạo và tỏa sáng tinh thần nhân văn.

Bài viết Cảm nhận về đoạn kịch Thề Nguyền (Tình yêu và thù hận) trong Rômêô và Giu-li-ét đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/cam-nhan-ve-doan-kich-nguyen-tinh-yeu-va-thu-han-trong-romeo-va-giu-li-et/feed 0 784
Phân tích chi tiết hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao https://hocvet.com/phan-tich-hinh-anh-bat-chao-hanh-cua-thi-no/ https://hocvet.com/phan-tich-hinh-anh-bat-chao-hanh-cua-thi-no/#respond Sun, 12 Sep 2021 03:23:06 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=754 Phân tích chi tiết hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao – Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao là một bức tranh thê thảm đầy bi thương của kiếp sống đói nghèo nhưng lương thiện, bị xô đẩy, tha hóa rất đáng cảm thương của những người nông dân. Xuyên suốt toàn tác phẩm là những hành động ngang ngược, độc ác, xấu xa của nhân vật Chí Phèo – một con người lương thiện bị tước đoạt, xô đẩy và lưu manh hóa. Nhưng ở

Bài viết Phân tích chi tiết hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích chi tiết hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao – Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao là một bức tranh thê thảm đầy bi thương của kiếp sống đói nghèo nhưng lương thiện, bị xô đẩy, tha hóa rất đáng cảm thương của những người nông dân.

Xuyên suốt toàn tác phẩm là những hành động ngang ngược, độc ác, xấu xa của nhân vật Chí Phèo – một con người lương thiện bị tước đoạt, xô đẩy và lưu manh hóa. Nhưng ở đoạn cuối của tác phẩm (Chí Phèo say rượu rồi gặp Thị Nở…), Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện. Động lực thúc đẩy ỡ đây là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của thị. Nếu như trước đây, Chí chỉ biết uống rượu, chửi bới, dọa nạt, cướp giật, nằm vạ… thì giờ đây khi được ăn bát cháo hành của Thị Nở, hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền…? Bát cháo có gì đâu: một chút gạo, vài cọng hành, vài ba hạt muôi mà hiệu quả thật không ngờ, bát cháo hành quả là liều thuốc giải độc. Nó vừa giúp Chí Phèo thoát ra khỏi cơn ốm sau khi say rượu vừa khơi dậy bản chất ý thức con người ở Chí. Phải chăng bát cháo hành đơn sơ chân quê đó đã được nấu bằng tất cả tấm lòng yêu thương chân thật của Thị Nở? Đúng vậy “bát cháo hành” tượng trưng cho tình cảm của Thị Nở với Chí Phèo, một tình cảm dịu dàng, giản dị nhưng đong đầy ân tình, nhân nghĩa…

Khi nhận được bát cháo hành, Chí rất ngạc nhiên. “Hết ngạc nhiên thì hắn thây mắt hình như ươn ướt”. Và Chí Phèo đã khóc, dòng nước mắt xúc động nghẹn ngào. Hắn đã khóc vì lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”. Hắn đã nhìn bát cháo bốc khói mà “bâng khuâng”, “vừa vui vừa buồn”. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn. Tự bao giờ, những tình cảm con người đã thức dậy trong tâm can “con vật lạ, con quỷ dữ” của làng Vũ Đại ấy. Bên cạnh Chí, Thị Nở múc cháo nhìn trộm hắn rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên…”. Lần đầu tiên, Chí đã biết đến cái duyên của một con người. Rồi hắn nhớ lại khi xưa nghĩ về quá khứ của mình khi phải săn sóc cho bà Ba, phải làm những việc xấu xa, hắn đã thấy nhục hơn là thích, rồi hắn thấy sợ. Xưa kia, cũng như bây giờ, hắn thật trong sáng, lương thiện. Vì vậy, “bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể
tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”. Thật kì diệu, những sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động trong anh. Đây là một đoạn văn tuyệt bút, đầy chất thơ.

Đồng thời khi ăn bát cháo ấy, “hắn càng ăn mồ hôi lại càng nhiều”. Và tất nhiên với một người cảm gió, mồ hôi ra được nhiều là sẽ khỏi hẳn. Hắn cũng thế, đã khỏi bệnh. Hắn đã cảm nhận được vị ngon của cháo “Trời ơi, cháo mới thơm làm sao !… những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngoa..”. Nhưng tại sao mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo “Hắn tự hỏi rồi tự trả lời… Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn bà…”.

Câu trả lời của Chí một lần nữa khẳng định sự kì diệu mà Thị Nở đã đem đến cho Chí Phèo. Một tình cảm ngàn vàng giữa hai con người cùng cảnh ngộ khốn cùng.

Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối của anh. Tinh yêu thương đã thức tỉnh Chí và linh hồn của Chí lâu nay phải bán cho quỷ dữ để đổi lấy miếng cơm, manh áo thì nay đã trở về với bát cháo hành và tình thương của Thị Nở là một liều thuốc quý không gì so sánh được mà nhà văn đã ban cho Chí Phèo bằng tấm lòng nhân đạo của mình.

Bài viết Phân tích chi tiết hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở trong truyện Chí Phèo của Nam Cao đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/phan-tich-hinh-anh-bat-chao-hanh-cua-thi-no/feed 0 754
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang https://hocvet.com/tag/cam-nhan-2-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang/ https://hocvet.com/tag/cam-nhan-2-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang/#respond Sun, 12 Sep 2021 03:19:23 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=748 Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang là khung cảnh thiên nhiên với nỗi sầu thiên cổ. Nhà thơ Huy Cận đã đặt nỗi buồn sầu đượm của bản thân hào với cảnh vật. Bên cạnh đó là nỗi nhớ quê hương da diết cùng nỗi đau của người lữ thứ trước hoàng hôn. Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang – Khổ thơ 3 “Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nếu như ở

Bài viết Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang là khung cảnh thiên nhiên với nỗi sầu thiên cổ. Nhà thơ Huy Cận đã đặt nỗi buồn sầu đượm của bản thân hào với cảnh vật. Bên cạnh đó là nỗi nhớ quê hương da diết cùng nỗi đau của người lữ thứ trước hoàng hôn.

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang – Khổ thơ 3

“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Nếu như ở khổ thơ thứ hai mang một góc nhìn rộng lớn như “trời lên sâu chót vót”. Hay “sông dài trời rộng” để thể hiện nỗi buồn của con người nhỏ bé trước cảnh vật đất trời. Sang đến khổ thơ ba, nhà thơ Huy Cận đã thu hẹp khoảng cách giữa con người và thiên nhiên. Nhờ vậy mà ta có thể cảm nhận rõ nỗi buồn trong sâu tâm hồn ông. 

Ông liệt kê những cảnh vật quen thuộc của đồng quê như “bèo, đò, cầu, bờ xanh, bãi vàng”. Từ đó gợi mở ra một cái nhìn cận cảnh, ẩn dụ cánh bèo nhỏ bé như kiếp người của ông. Bèo dạt do dòng nước nối nhau và kiếp người cũng trôi dạt như vậy giữa dòng đời. 

Tác giả còn sử dụng từ láy “mênh mông” để diễn tả sự rộng lớn của đất trời. Nhưng, giữa nơi đất trời mênh mông ấy lại “không” có – lặp tới 2 lần. Con người và cảnh vật đều “không” có, chỉ mình nỗi cơ đơn ngự trị với thi nhân. Với ông lúc này, bến và đò vốn gắn liền với nhau thì giờ đều tách rời, chia hai rẽ. Cuối khổ 3, ông khép lại bằng từ láy “lặng lẽ” để nhấn mạnh sự tĩnh mịch của không gian. Chính sự trống vắng, tách rời ấy để khiến con người rơi vào

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang – Khổ thơ cuối

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Ở khổ thơ cuối, thi nhân đã mở ra nỗi nhớ quê hương vừa sâu lắng, vừa kín đáo. Đặc biệt, khổ thơ này đã thể hiện rõ chất thơ hiện đại kết hợp cổ điển một cách hài hòa. Ông sử dụng từ láy “lớp lớp” để nhấn mạnh sự chồng chất của những đám mây. Từ đó, gợi mở ra được một không gian cảnh sắc hùng vị, rợn ngợp. Động từ “đùn” được dùng để đặc tả sức sống của những lớp mây đó, cứ thế dâng cao. 

Trong bức tranh thiên cổ đấy, tác giả điểm thêm hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ”. Tưởng chừng tô điểm sinh động cho không gian nhưng lại mang nặng một nỗi buồn. Bởi cánh chim ấy bị “bóng chiều sa” đè trên vai đầy sự chán chường và mệt mỏi. 

Để khép lại cả bài thơ, ông nhấn mạnh “lòng quê” thể hiện tình cảm trung thành với đất nước. Thi nhân khéo léo chọn từ láy “dợn dợn” để tạo sự chuyển động nhỏ bé nhưng liên tục. Giống như tình yêu quê hương của nhiều người, dù “không khói” cũng “nhớ nhà”. Không nhắc đến nhưng cứ nhớ là thấy nhói trong tim.  

Tham khảo thêm bài viết – Câu hỏi tu từ trong bài thơ Ông Đồ

3.Kết luận

Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang cho ta thấy được nỗi cô đơn giữa con người với cảnh vật quê hương. Nỗi buồn từ cảnh vật và trong tâm hồn thi nhân tác động qua lại với nhau. Từ đó mở ra cả một hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Khi con người không được tự do trong chính quên hương, đất nước của mình. 

Bài viết Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/tag/cam-nhan-2-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang/feed 0 748
Lập dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang của huy cận https://hocvet.com/tag/lap-dan-y-phan-tich-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang-cua-huy-can/ https://hocvet.com/tag/lap-dan-y-phan-tich-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang-cua-huy-can/#respond Sun, 12 Sep 2021 02:46:51 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=739 Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Nói đến Huy Cận, ta chưa có dịp đọc hết nhưng ta cũng có cảm giấc buồn. Chế Lan Viên viết: Đừng quên có một thời thơ đó Tổ quốc trong lòng mà cũng như không. Trong lòng mỗi đứa con đất Việt đều có chung một đất nước hình chữ “S” uốn lượn nhưng có cũng như không trong cảnh mất nước. Thế giới sầu của Huy Cận là cái vỏ bọc che chắn cho nhà thơ

Bài viết Lập dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang của huy cận đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận – Nói đến Huy Cận, ta chưa có dịp đọc hết nhưng ta cũng có cảm giấc buồn. Chế Lan Viên viết:

Đừng quên có một thời thơ đó Tổ quốc trong lòng mà cũng như không.

Trong lòng mỗi đứa con đất Việt đều có chung một đất nước hình chữ “S” uốn lượn nhưng có cũng như không trong cảnh mất nước. Thế giới sầu của Huy Cận là cái vỏ bọc che chắn cho nhà thơ ưong những phút tìm quên ấy.

Tràng giang cũng thuộc vào hệ thống những bài thơ đượm chất buồn của thi sĩ. Mỗi khổ là một điệu buồn man mác cả về cảnh lẫn tình. Khổ thơ cuối là tiêu biểu cho bức tranh đẹp mà buồn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dờn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Cả bốn câu thơ đều có tâm cảnh và ngoại cảnh, nói cách khác đó là cảnh buồn gặp tình buồn. Hoàng hôn thường là buổi diễn tả hay nhất sự buồn sự nhớ (như Bà Huyện Thanh Quan) nhưng Huy Cận đã phủ định “không” để nói lên cái có trong lòng mình.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” có từ láy “lớp lớp” tạo cảm tưởng mây nhiều quá, toàn những áng mây trăng nhiều hình thể đùn đẩy, chen nhau trên cái nền trời với đỉnh núi xa xâm phủ màu trắng kim loại bạc. Câu thơ tạo không khí buồn ngay từ sự liên tưởng với nét vẽ tài tình của nhà thơ, từng gam màu chồng lên nhau, đồng hiện gây ấn tượng cho óc liên tưởng của người đọc.

Trong bức tranh chiều buồn ấy, một cánh chim mỏi.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.

(Hồ Chí Minh)

Như tăng thêm sức gợi: cảnh buồn mà hồn người càng buồn hơn.

Cánh chim nhỏ chao nghiêng, dưới góc độ của nhà thơ như đã làm bóng chiều cũng theo đó mà sa xuống. Động từ sa nằm ở vị trí này cùng với dấu hai chấm là nét chấm phá cực hay. Sự đối lập giữa cái nhỏ bé của cánh chim và cái bao la của bóng chiều tà càng tăng thêm nỗi niềm của kẻ xa nhà:

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hai câu cuối bộc bạch quá rõ tâm tình của nhà thơ. Thì ra, cảm giác buồn điệp điệp, cô liêu đều là do nhớ nhà.

Thơ viết về tình cảnh nhớ thương, lưu luyến gia đình quê hương không phải chỉ đến Huy Cận mới có nhutig dường như đọc những câu thơ của Huy Cận thì không lẫn vào đâu được cái cảm giác buồn lai láng của “thế giới sầu” ở nhà thơ.

Hai từ láy “dờn dợn” được đặc biệt lưu ý vì có nhiều độc giả đọc thành “dờn dợn”. Phải là “dợn dợn” mđi lạ và gây sức cảm mạnh. Cái ngoại cảnh đã có muôn ngàn lớp sóng vỡ trong lòng người, trong tâm cảnh.

Khói sóng là tác nhân mạnh mẽ gây nên nỗi nhớ trong tứ thơ Thôi Hiệu (nhà thơ Trung Quốc), còn đối với Huy Cận lời tâm sự bắt đầu bằng từ chữ “không” phủ định dùng cái không mà khẳng định thật cái có nỗi nhớ nhà.

Bốn câu thơ như là một bài thơ tứ tuyệt tả cảnh ngụ tình rõ ràng là như vậy, bến Chèm ở sông Hồng gợi về vùng quê sông nước Hương Sơn (Hà Tĩnh) của nhà thơ. Đó là một tình cảm đẹp mà thực của nhà thơ, nó xuất phát từ tâm trạng hiện tại. Xa nhà và buồn cảnh đất nước. “Sóng gửi tràng giang buồn điệp điệp”. Nỗi buồn “điệp điệp” ấy bao phủ cả thi phẩm và đến khổ cuối như một nỗi niềm òa vỡ không sao kiềm chế được.

BÀI LÀM 2

Có bao nhiêu dòng sông lặng lờ chảy qua những trang thơ ưong phong ưào Thơ mới 1930-1945. Ta rợn ngợp với “Sông lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời” trong “Nguyệt cầm” của Xuân Diệu, bâng khuâng với “Lai láng niềm trăng tương dạ nước” trong thơ Thúc Tề, lãng đãng khói sương với “Bến sông trăng” trong “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử và nặng trĩu bao nỗi lòng với “Tràng giang” của Huy Cận. “Tràng giang” là một bài thơ hay tuy kết thúc bài thơ mà còn vẫn mênh mông bao điều. Khổ cuối bài thơ, có khép lại một cái gì đó nhưng mở ra nhiều, gợi sâu thẳm một nỗi niềm sông núi đầy sức hấp dẫn và ám ảnh.

Dịp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Có những khoảng khắc thần diệu của nỗi niềm làm bật lên, phát sáng những vần thơ có sức hút kì lạ. Điều đó cũng ứng với “Tràng giang”? Đứng ở bờ Nam bến Chèm bên bờ sông Hồng, dường như nỗi buồn của Huy Cận còn dài, rộng, lai láng hơn dòng sông ưưđc mặt. Thế rồi cả dòng buồn lặng lẽ ấy đã chảy qua những dòng thơ, thấm đẫm dòng thơ. Nỗi buồn chảy tràn từ câu thơ này xuống câu thơ khác “Tràng giang” và đến hạ lưu – khổ cuối bài thơ, dường như nó lại bồi đắp thêm bao nỗi niềm trước khi tung mở, chảy ưôi khắp tâm hồn người đọc. Mở đầu khổ cuối là một hình ảnh đầy sáng tạo.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Ánh nhìn của nhà thơ đã hướng lên trên. Hình ảnh núi, mây trắng bạc ấy đã in đậm trong đôi mắt thi nhân. Sau này trong “Tây Tiến”, Quang Dũng đã có nói đến “cồn mây”.

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Nhưng xem ra nó chưa thật ấn tượng và hùng vĩ như núi mây bạc ở Tràng giang. Ta hình dung trên bầu ười cao rộng ấy, mây ưắng đang đùn thành tảng núi lớn hùng vĩ, lộng lẫy sắc bạc. Từ “đùn” Huy Cận dùng thật đắt. Sau này, ông cũng có dùng chữ “đùn” trong bài thơ khác nổi tiếng của mình:

Bóng tối đùn ra trận gió đen.

ở “Các vị La Hán chùa Tây Phương”, Huy Cận nói ông đã mượn chữ “đùn” của Đỗ Phủ trong câu thơ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Từ “đùn” quả thật tự bên trong nó đã có một nội lực, và chính nó đã tạo nên một giá trị tạo hình độc đáo của câu thơ. Và trên nền ười lộng lẫy những núi mây ấy, nhà thơ đã điểm xuyết một cánh chim chiều.

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.

Có thể nói đây là một trong những câu thơ hay nhất của bài. Một cánh chim lại “nghiêng cánh nhỏ ” chơi vơi giữa một khung cảnh cao rộng như thế mới thấy hết cô đơn, lạc lõng của con người, chỉ như “củi một cành khô lạc mấy dòng” hay một cánh chim mà thôi.

Cánh chim đã nhỏ, lại chở nặng cả bóng chiều trên đôi cánh ấy, nên chỉ khẽ nghiêng cánh, bóng chiều đã “sa” đã đổ ập xuống dòng sông và lòng người. Đến đây ta mới hiểu vì sao Huy Cận ở khổ thơ thứ hai lại viết.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.

Thì ra, bóng chiều trỉu nặng ấy đã “sa”, đã nằm sâu trong lòng sông cũng như lòng người mất hẳn rồi Nặng nề đến thế nên mới kết bài thơ bằng hai câu thơ.

Lòng quê dờn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Từ “dờn dợn” nghe thật lạ, đặc biệt. Huy Cận đã nói lên cái nặng nề của dòng sông đang chảy trôi vào lòng người đang thấm thìa nỗi buồn. Trên sông có khói thường buồn. Người xưa có câu “Yên ba sầu sát nhân” (khói sóng buồn đến chết người), cả Thôi Hiệu cũng có hai câu thơ nổi tiếng mà Tản Đà đã dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Thế nhưng với Huy Cận, chẳng cần khói sóng hoàng hôn cũng “nhớ nhà”, lòng quê vẫn dậy lên một nỗi niềm man mác. Phải nói trong lòng thi nhân nỗi buồn lo ấy to lớn vô cùng, nén kín, dằn sâu mà chỉ chực trào ra, chẳng cần ngoại cảnh làm chất xúc tác. Nỗi buồn vẫn bay lên che phủ khắp hồn người. Nỗi buồn ấy không còn cộng hưởng với ngoại cảnh, tự nó đã rung lên tiếng lòng tha thiết nhất. Ô-giê-rôp có câu: “Thơ là thể loại để lại nhiều khoảng trắng trên giấy trắng”. Thế nhưng ở bài thơ này, cụ thể là khổ cuối mà ta đang khám phá, những khoảng trắng giữa các dòng thơ chưa được cảm xúc của người đọc dâng lên lấp đầy thì nó đã đong đầy nỗi buồn của thi nhân mất rồi.

Lê Di có nhận xét:

Là Tràng giang, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,

Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.

Khổ cuối bài thơ Tràng giang cũng vậy. Nó không thoát khỏi cái mạch buồn đã được khơi nguồn từ đầu bài thơ. Có thể nói ở khổ thơ cuối này, Huy Cận đã đưa nổi buồn sông núi của mình thăng hoa. Hiểu khổ thơ cuối, hiểu bài thơ, ta mới cảm hết được tâm hồn “mang mang thiên cổ sầu” của ông. Dòng buồn chảy quanh, chảy tràn vào trong mười sáu vần thơ, nó đã hợp lưu với những dòng thơ ấy thành những dòng trữ tình lặng lẽ chảy trôi trong tâm hồn người đọc, những dòng trữ tình lặng lẽ, như đã nói ở trên đây, đầy sức hấp dẫn và ám ảnh.

Bài viết Lập dàn ý phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang của huy cận đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/tag/lap-dan-y-phan-tich-kho-tho-cuoi-bai-trang-giang-cua-huy-can/feed 0 739
Các biện pháp tu từ trong bài Tương tư https://hocvet.com/tag/cac-bien-phap-tu-tu-trong-bai-tuong-tu/ https://hocvet.com/tag/cac-bien-phap-tu-tu-trong-bai-tuong-tu/#respond Sat, 11 Sep 2021 16:18:45 +0000 https://demo.hocvet.com/?p=654 Tương tư là một bài thơ độc đáo, thể hiện một khía cạnh rất đặc biệt trong tình yêu. Đó là giai đoạn một người nhung nhớ, chờ mong người kia, hay còn gọi là tương tư. Nhà thơ Nguyễn Bính đã sử dụng rất hiệu quả các biện pháp tu từ trong bài Tương tư. Cùng demo.hocvet.com khám phá những biện pháp nghệ thuật đắt giá đó nhé. Hoán dụ – Phép tu từ hoán dụ: dùng địa danh để chỉ người ở địa danh đó, thể hiện ở các câu thơ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một

Bài viết Các biện pháp tu từ trong bài Tương tư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
biện pháp tu từ trong bài Tương tư. Cùng demo.hocvet.com khám phá những biện pháp nghệ thuật đắt giá đó nhé.

Hoán dụ

– Phép tu từ hoán dụ: dùng địa danh để chỉ người ở địa danh đó, thể hiện ở các câu thơ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người. và: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? “Thôn Đoài”, “thôn Đông” là các địa danh làng xã quen thuộc có mặt nhiều trong ca dao. Hồn thơ của Nguyễn Bính rất mộc mạc, dung dị và gần gũi. Tác giả sử dụng hình ảnh thôn làng để gợi lên cảnh làng quê bình yên. Đồng thời ngầm xây dựng hình ảnh nhân vật trữ tình chân quê hồn hậu, hiền lành.

Điệp từ

– Điệp từ “ngày”: Ngày qua ngày Iại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Hai câu thơ gợi lên sự mòn mỏi, diễn tả thời gian chầm chậm trôi qua vô vị, đằng đẵng. Đối với người đang trong tâm trạng nhung nhớ chờ đợi, thời gian lúc nào cũng trôi thật chậm. Nhưng những giờ phút hạnh phúc lại trôi rất nhanh nên mới có câu “ngày vui qua mau”. Nỗi tương tư dằng dặc nhiều ngày tháng, qua bao mùa cây thay lá. Nhưng đây cũng là hình ảnh ẩn dụ cho chàng trai héo mòn như chiếc lá vàng vì nhớ mong.

Ẩn dụ

– Ẩn dụ: Bao giờ bến mới gặp đò Hoa khuê các, bướm giang hồ gập nhau. Trong ca dao và dân ca rất hay bắt gặp những hình ảnh chỉ tình yêu đôi lứa. Ví dụ như thuyền – bến, bến – đò, trầu – cau, bướm – hoa… Cái hay của Nguyễn Bính là sử dụng chất liệu dân gian vô cùng nhuần nhuyễn. Điều này tạo nên âm hưởng ca dao mộc mạc ý nhị cho bài thơ. Nhưng chúng ta vẫn có thể thấy được bóng dáng phóng khoáng của tinh thần Thơ mới. Đó là 2 hình ảnh độc đáo “hoa khuê các” – “bướm giang hồ”. Ý chỉ người con gái nền nã, đài các và người con trai phiêu bạt, có chí lớn. Đọc thêm bài: Soạn bài Mây và Sóng

Sóng đôi

– Sóng đôi: Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Cụm từ “nhà anh” – “nhà em” sóng đôi tạo thành cặp thơ đối ứng. Ngầm ý về sự “xứng lứa vừa đôi”. Hình ảnh trầu cau cũng gợi lên mong ước về tình yêu đôi lứa. Chàng trai cảm thấy đã đầy đủ các yếu tố cần thiết nên mong muốn nên duyên cùng cô gái. Tuy nhiên ở đây vẫn có sự chia tách về không gian. “Giàn giầu” nhà em và “hàng cau” nhà anh vẫn chưa gần, chưa thành đôi mà chỉ mới là một. Không cuồng nhiệt như tình yêu của Xuân Diệu, chữ tình trong thơ Nguyễn Bính dịu êm mà thắm thiết. Vừa chân thành vừa mộc mạc như mối duyên của ông bà, cha mẹ từ ngàn xưa. Sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ trong bài Tương tư giúp người đọc cảm được hồn thơ. Đồng thời biến áng thơ này trở thành một khúc ca tương tư ngọt ngào, trong sáng và ấn tượng.

Bài viết Các biện pháp tu từ trong bài Tương tư đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Học vẹt.

]]>
https://hocvet.com/tag/cac-bien-phap-tu-tu-trong-bai-tuong-tu/feed 0 654